Ánh Sáng đă Chiếu Soi

‘Dân Riêng’ Do Thái Giáo  

 

 

T

rước hết, về phương diện vị thế của ḿnh, ‘ánh sáng thật’ đó là một thứ ánh sáng hiện lên để thực sự làm sáng tỏ các lời tiên tri trong Cựu Ước của dân Do Thái nói riêng: Thày đến không phải để hủy bỏ mà là để làm cho lề luật và các lời tiên tri được nên trọn’ (Mt 5:17), cũng như để hoàn toàn làm sáng tỏ tất cả những đạo lư sẵn có của loài người nói chung: ‘Lư do Tôi đến thế gian là để làm chứng cho chân lư. Ai quyết tâm t́m kiếm chân lư th́ nghe thấy tiếng Tôi’ (Jn 18:37)” (trang 96).

 

Bởi vậy, “hết mọi người” được “ánh sáng thật đă đến trong thế gian chiếu soi” đây sẽ bao gồm cả dân Do Thái cũng như các Dân Ngoại.

 

Trước hết, đối với dân Do Thái hay với Do Thái Giáo, “ánh sáng thật” đă chiếu soi cho họ ở chỗ Ánh Sáng này làm sáng tỏ Cựu Ước của họ.

Giữa Do Thái Giáo và Kitô Giáo có một vấn đề tương khắc ở chỗ: Nếu người Do Thái nào công nhận nhân vật Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, tức là Đức Kitô, họ sẽ bị loại trừ ra khỏi Hội Đường Do Thái, trái lại, nếu Kitô hữu nào không công nhận nhân vật Giêsu lịch sử “là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16:16), họ liền trở thành một kẻ rối đạo, bị tuyệt thông với Hội Thánh Chúa.

 

Phần Chúa Kitô, tuy biết trước được rằng “Người đến với dân riêng của Người song dân Người không chấp nhận Người” (Jn 1:11), Chúa Kitô cũng vẫn sinh ra theo gịng dơi Do Thái và sống chết với dân Do Thái, v́ dân này đă là đối tượng của Mạc Khải Thần Linh, một mạc khải hướng đến Người là trọng tâm của nó.

 

Thật vậy, Phúc Âm Thánh Gioan đă cho thấy Chúa Kitô đă tự minh chứng về Người cho dân Do Thái biết Người là ai (xem Gioan 8:24,27) và bởi đâu mà đến (xem Gioan 8:14,21), chẳng những bằng việc căn cứ, trên hết, vào các việc Người làm (xem Gioan 5:36-37), mà c̣n, trước hết, căn cứ vào Gioan Tẩy Giả đồng thời với Người (xem Gioan 5:31-35), nhất là vào những lời Thánh Kinh Cựu Ước nữa:

 

·        Quí vị t́m kiếm các Sách Thánh, nơi mà quí vị nghĩ rằng quí vị sẽ t́m được sự sống đời đời, th́ các sách ấy cũng làm chứng về Tôi”. (Jn 5:39)

 

·        Nếu quí vị tin Moisen th́ quí vị hẳn tin Tôi, v́ Moisen đă viết về Tôi”. (Jn 5:47)

 

Trong Phúc Âm Thánh Luca (4:16-21), để mở màn cho sứ vụ truyền bá phúc âm hóa của ḿnh, chính Chúa Giêsu cũng đă áp dụng lời của tiên tri Isaia (61:1-2, xin xem cả đoạn 11 từ câu 2 đến câu 5 về bảy thần trí nơi Người liên quan đến quyền hành thế lực của Người) nói về bản thân Người như sau:

 

·        Trở về Nazarét, nơi sinh trưởng của ḿnh, và vào hội đường trong ngày hưu lễ như vẫn có thói quen, Người đứng lên đọc sách. Được trao cho cuốn sách Isaia, mở ra, Người thấy đoạn viết:

 

‘Thần linh Chúa ở trên tôi;

bởi thế Ngài đă xức dầu cho tôi.

Ngài đă sai tôi đem tin mừng cho người nghèo khó,

loan báo tự do cho những kẻ lưu đầy,

phục quang cho kẻ mù ḷa và giải cứu các tù nhân,

công bố năm hồng ân của Chúa’.

 

Người gấp sách lại trao trả cho người giúp việc hội đường rồi ngồi xuống. Tất cả mọi người trong hội đường chăm chú nh́n Người. Bấy giờ Người mới bắt đầu nói với họ rằng: ‘Hôm nay đoạn Sách Thánh này đă được nên trọn như quí vị nghe thấy đó’”.

 

Trong Phúc Âm Thánh Mathêu, Chúa Giêsu c̣n xác nhận với chung dân chúng và với riêng các môn đệ về vai tṛ của Người liên quan đến Cựu Ước như sau:

 

·        Đừng tưởng rằng Thày đến để hủy bỏ lề luật và lời các tiên tri. Thày đến không phải là để hủy bỏ song để làm cho chúng được nên trọn” (Mt 5:17).

Chính v́ thế mà ba Phúc Âm Nhất Lăm, Mathêu (17:1-3), Marcô (9:2-4) và Luca (9:28-30), đều thuật lại là, trong cuộc biến h́nh trên núi để tỏ vinh quang phục sinh sau này của ḿnh ra cho ba môn đệ thân tín nhất là Phêrô, Giacôbê và Gioan, thành phần đại diện cho Tân Ước thấy, mới có mặt thành phần đại diện cho Cựu Ước là Moisen, tiêu biểu cho lề luật, và Êlia, tiêu biểu cho các lời tiên tri. 

 

Chúa Giêsu c̣n làm cho lề luật nên trọn ở chỗ áp dụng những lời Cựu Ước vào đời sống của ḿnh, như trường hợp Người chống trả các chước cám dỗ của Satan trong hoang địa sau khi đă ăn chay suốt 40 đêm ngày:

 

·        Tên cám dỗ tiến lại mà nói với Người: ‘Nếu ngươi là Con Thiên Chúa th́ hăy truyền cho những viên đá này trở thành bánh mà ăn’. Chúa Giêsu trả lời: ‘Có lời Sách Thánh là người ta không sống nguyên bởi bánh mà c̣n bởi mọi lời Thiên Chúa phán dạy’ (Deut 8:3). Đoạn ma quỉ đem Người vào thành thánh, đặt Người trên nóc đền thờ mà nói: ‘Nếu ngươi là Con Thiên Chúa th́ hăy nhào xuống đi. Sách Thánh có câu: Ngài sẽ khiến các thiên thần coi sóc cho ngươi; họ sẽ nâng đỡ ngươi để ngươi không thể nào vấp phải đá’. Chúa Giêsu đáp: ‘Cũng có lời Sách Thánh: Ngươi không được phép thử thách Chúa là Thiên Chúa’ (Deut 6:16). Thế rồi ma qủi đưa Người lên một ngọn núi rất cao và bày ra trước mắt Người tất cả vinh sang của mọi vương quốc thế gian mà hứa hẹn rằng: ‘Ta sẽ ban cho ngươi tất cả những thứ ấy, nếu ngươi qú xuống tôn thờ Ta’. Nghe thế, Chúa Giêsu mới nói cùng hắn: ‘Hỡi Satan, hăy xéo đi! Có lời Sách Thánh là: Ngươi phải tôn thờ Chúa là Thiên Chúa của ngươi; ngươi phải tôn thờ một ḿnh Ngài mà thôi (Deut 6:13)’”. (Mt 4:3-10)

 

Về thái độ đạo đức giả h́nh của người Pharisiêu, Chúa Giêsu cũng viện dẫn lời Cựu Ước như sau:

 

·        Các người là những kẻ giả h́nh! Isaia đă nói tiên tri về các người đúng lắm thay: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi mép, c̣n ḷng chúng th́ ĺa xa Ta’”. (Mt 15:7-8; Ps 78:36 và Is 29:13)

 

Về việc dùng dụ ngôn mà giảng dạy dân chúng, Người cũng làm theo lời Kinh Thánh:

 

·        Thày dùng dụ ngôn để nói với họ v́ họ nh́n xem mà không thấy, lắng tai nghe mà không lọt hay không hiểu. Lời tiên tri Isaia đă nói không sai về họ là: ‘Các ngươi sẽ lắng tai nghe song chẳng hiểu ǵ, sẽ trố mắt nh́n mà chẳng thấy chi. Ḷng dân này thật sự đă ra chai đá. Họ hầu như không nghe thấy, họ nhắm chặt mắt lại, kẻo mắt họ thấy, tai họ nghe, ḷng họ hiểu mà trở về để Ta chữa cho họ được lành’” (Mt 13:13-15; Is 6:9).

 

Về việc các môn đệ sẽ trốn bỏ Người, nhất là Phêrô sẽ chối bỏ Người, sau khi Người bị bắt:

 

·        Bấy giờ Chúa Giêsu nói với họ: ‘Đêm nay ḷng các con tin vào Thày sẽ bị kinh động, v́ Thánh Kinh đă viết: Ta sẽ đánh chủ chiên làm cho chiên trong đàn bị phân tán’” (Mt 26:31; Zec13:7).

 

Về thân phận hư mất của một trong số 12 môn đệ của Người:

 

·        Bao lâu c̣n ở với họ, Con đă nhân danh mà Cha đă ban cho Con để ǵn giữ họ. Con đă cẩn thận coi sóc họ, không để cho một ai trong họ phải bị hư đi, không một ai ngoại trừ người được ấn định hư đi theo đúng như lời Kinh Thánh” (Jn 17:12; Ps 41:10)

 

Sau khi phục sinh từ trong cơi chết, Chúa Kitô cũng lấy Thánh Kinh Cựu Ước để chứng minh về Người cho các môn đệ tin Người, như Phúc Âm Thánh Luca tŕnh thuật:

 

·        Bấy giờ Người nói với họ (hai môn đệ đang đi về Emmau): ‘Các người chẳng hiểu ǵ hết! Sao các người chậm tin tất cả những ǵ các tiên tri đă loan báo đến thế!..’” (Lk 24:25-26)

 

·        Đoạn Người nói với họ (11 Vị và nhóm người ở với các vị đang nghe hai môn đệ đi Emmau trở về thuật lại chuyện xẩy ra trên đường): ‘Các con hăy nhớ lại những lời Thày đă nói với các con khi Thày c̣n ở với các con, đó là mọi sự được viết về Thày trong luật Moisen và các tiên tri cũng như Thánh Vịnh cần phải được nên trọn’” (Lk 24:44)

 

Phần các tông đồ là những chứng nhân tiên khởi, nhất là Thánh Mathêu, Gioan và Phêrô, khi rao giảng hay viết về Thày của ḿnh, vẫn thường trưng dẫn Thánh Kinh Cựu Ước để chứng minh về Người. Chẳng hạn những đoạn chính yếu tiêu biểu sau đây:

 

Về Người Mẹ trinh nguyên của Người:

·          Tất cả những điều này xẩy ra (việc Đức Maria thụ thai bởi Chúa Thánh Thần) để lời Chúa dùng vị tiên tri mà phán được nên trọn:Này đây một trinh nữ sẽ thụ thai và hạ sinh một con trai và sẽ đặt tên cho Người là Emmanuel’, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. (Mt 1:22-23; Is 7:14 xem cả lời tiên tri của Isaia đoạn 11 câu 1 về Vị Emmanuel này thuộc gịng dơi Đavít sẽ xuất hiện như một chồi mọc lên từ gốc Jessê, hợp với lời sứ thần Gabriel truyền tin cho Mẹ Người biết trong Phúc Âm Thánh Luca đoạn 1 câu 32)

 

 Về địa điểm giáng sinh của Người:

 

·        Triệu tập tất cả các trưởng tế và luật sĩ trong dân lại, vua (Hêrôđê) muốn họ cho biết Đấng Thiên Sai sinh ra ở đâu. Họ trả lời: ‘Ở Bêlem xứ Giuđêa. Có lời tiên tri đă viết: Phần ngươi, hỡi Bêlem, đất Giuđa, ngươi không tầm thường nhất trong hàng khanh tướng của chi tộc Giuđa đâu, v́ từ ngươi sẽ xuất hiện một vị lănh đạo là mục tử chăn dắt Yến-Duyên dân Ta’”. (Mt 2:4-6; Mica 5:1)

 

Về vị tiền hô Gioan Tẩy Giả của Người:

 

·        Khi Gioan Tẩy Giả xuất hiện giảng dạy trong sa mạc xứ Giuđêa với đề tài: ‘Hăy cải thiện đời sống! Nước Thiên Chúa gần đến rồi’. Ông chính là vị được lời tiên tri nói tới là:Có tiếng kêu trong sa mạc; hăy dọn đường cho Chúa, san phẳng đường nẻo của Ngài’” (Mt 1-3:3; Is 40:3)

 

Về địa điểm Người rao giảng cho dân ngoại:

 

·        Khi Chúa Giêsu nghe thấy Gioan đă bị tống ngục th́ rút về Galilêa. Người bỏ Nazarét xuống ở Caphanaum gần biển giáp địa hạt Zêbulun và Naphtali để hoàn tất các lời tiên tri Isaia: ‘Đất Giêbulun và Neptali, đường dẫn ra biển, bên kia sông Dược-Đăng, xứ Galilêa thuộc dân ngoại, dân chúng c̣n ngồi trong tối tăm đă nh́n thấy ánh sáng vĩ đại, ánh sáng đă bừng lên trên những kẻ ở trong bóng tối sự chết’”. (Mt 4:12-16; Is 8:23, 9:1).

 

Về việc Người làm phép lạ cứu chữa bệnh nạn tật nguyền cho dân chúng:

 

·        Vào buổi chiều tối, họ mang đến cho Người nhiều người bị quỉ ám. Người chỉ cần truyền khiến là các thần bị khử trừ và Người đă chữa tất cả những ai bị bệnh hoạn, làm những lời tiên tri Isaia được nên trọn: ‘Người chữa lành các yếu đau của chúng ta, mang lấy các bệnh hoạn của chúng ta’”. (Mt 8:16-17; Is 53:4)

 

Về việc Người thường dùng dụ ngôn mà giảng dạy:

 

·        “Tất cả những điều dạy dỗ dân chúng ấy Chúa Giêsu đều dùng dụ ngôn mà nói. Người chỉ dạy họ bằng dụ ngôn mà thôi, cho những lời tiên tri được nên trọn: ‘Ta sẽ mở miệng nói dụ ngôn, ta sẽ loan truyền điều kín mật từ khi thế gian được tạo thành’”. (Mt 13:34-35; Ps 78:2)

 

Về t́nh trạng cứng ḷng tin của dân Do Thái đối với lời nói và việc làm của Người:

 

·        “Mặc dầu Người đă làm nhiều sự lạ trước mắt họ, họ vẫn không chịu tin vào Người, để lời tiên tri Isaia được nên trọn: ‘Chúa ơi, ai tin vào việc rao giảng của tôi đây, quyền năng của Chúa tỏ ra cho ai đây?’ V́ thế, họ không thể tin được, v́ Isaia c̣n nói: ‘Họ nhắm mắt, họ cứng ḷng, để mắt họ không thấy, ḷng họ không hiểu kẻo họ phải quay trở lại khiến Ta chữa lành họ’”. (Jn 12:37-40; Is 53:1, 6:9-10)

 

Về ḷng nhân ái vô cùng của Người đối với các kẻ cứng ḷng tin:

 

·        Có nhiều người đi theo Người và Người chữa lành hết mọi người trong họ, tuy nhiên Người nghiêm nghị truyền họ không được tiết lộ ra công cộng những ǵ Người đă làm. Điều này đă làm trọn lời tiên tri Isaia:  ‘Này là người tôi tớ Ta tuyển chọn, con người dấu ái mà Ta hài ḷng. Ta sẽ ban cho Người thần trí của Ta và Người sẽ loan truyền đức công minh chính trực cho Dân Ngoại. Người sẽ không căi lẫy hay lớn tiếng, cũng chẳng bao giờ có ai nghe thấy tiếng Người nơi phố xá.  Người không bẻ gẫy cây sậy dập nát, Người không dập tắt ngọn bấc c̣n đang bốc khói, cho đến khi Người làm cho công chính được vinh thắng’”. (Mt 12:16-20; Is 42:3-4)

 

Về việc Người khải hoàn vào thành Gialiêm:

 

·        Khi đến gần thành Gialiêm, tiến vào Bethphage trên Núi Cây Dầu, Chúa Giêsu sai hai môn đệ đi mà căn dặn rằng: ‘Các con hăy đến khu làng đằng trước th́ các con sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang được cột sẵn ở đó cùng với con lừa con, các con hăy cởi chúng ra mà dẫn về đây cho Thày. Nếu có ai hỏi ǵ th́ các con cứ nói rằng ‘Thày đang cần’. Bấy giờ họ sẽ không làm khó dễ các con’. Điều này xẩy ra là để hoàn tất lời tiên tri: ‘Hăy nói cùng nữ tử Sion, này vua ngươi đến với ngươi, dịu dàng cưỡi trên lưng lừa, lưng của một con lừa con, con của một con thú chở đồ’”. (Mt 21:1-5; Is 62:11;  Zac 9:9)

 

Về việc áo xống của Người bị đám lính lấy chia nhau:

 

·        Sau khi quân lính đă đóng đanh Chúa Giêsu th́ họ lấy áo xống của Người mà chia làm bốn phần, mỗi người một phần. Người cũng có cả chiếc áo dài nữa, nhưng chiếc áo này chỉ là một tấm vải liền từ đầu tới cuối không có đường chỉ. Họ mới nói với nhau rằng: ‘Chúng ta không nên xé nó ra. Chúng ta hăy bắt thăm xem ai trúng th́ lấy’. (Việc làm này đă làm hoàn tất lời Sách Thánh là: ‘Họ chia nhau áo xống của Ta, c̣n áo ngoài th́ họ bắt thăm’)”. (Jn 19:23-24; Ps 22;19)

 

Về t́nh trạng nguyên vẹn xương chân của Người và việc cạnh sườn của Người bị đâm thủng:

 

·          Vậy quân lính đến đánh gẫy ống chân của người thứ nhất, rối đến người thứ hai, những người cùng bị đóng đanh với Chúa Giêsu. Nhưng đến lượt Chúa Giêsu, thấy Người đă chết, họ không đánh gẫy ống chân của Người nữa, nhưng có một người lính lấy đ̣ng đâm vào cạnh sườn của Người, làm cho máu cùng nước lập tức chảy ra. Điều này xẩy ra để ứng nghiệm lời Sách Thánh: ‘Không một đốt xương chân nào của Người bị gẫy cả’. Lại có lời Kinh Thánh khác là: ‘Họ sẽ nh́n xem đấng họ đă đâm thấu’”. (Gioan 19:32-37;  Ps 31:24; Zac 12:10; xin xem cả lời của Isaia đoạn 50 câu 5 và 6 nói về thân xác bị hành khổ và dung nhan bị phỉ nhổ của Người, nhục nhă đến nỗi Người đă trở thành ‘sâu bọ đất chứ không phải là người’ khiến ‘tất cả mọi người nh́n thấy đều khinh dể, họ bỉu môi, họ lắc đầu’ như Thánh Vịnh đoạn 22 câu 7 và 8 tiên diễn, đúng như Ba Phúc Âm Nhất Lăm, Mathêu 27:39-44, Marcô 15:29-32, Luca 25:35-39, tŕnh thuật)

 

Về việc thân xác của Người phục sinh từ trong kẻ chết:

 

·        “Nhưng Thiên Chúa đă giải thoát khỏi cái chết khổ đau và đă làm cho Người sống lại, v́ cái chết không thể nào lại làm chủ Người được. Đavít nói về Người rằng:

‘Con luôn nhớ có Ngài trước mặt, được Ngài ở bên chẳng nao núng bao giờ.

V́ thế, tâm hồn con mừng rỡ, và ḷng dạ hân hoan,

thân xác con cũng nghỉ ngơi an toàn.

V́ Chúa chẳng đành bỏ mặc con trong cơi âm ti,

không để kẻ hiếu trung này hư nát trong phần mộ.

Chúa sẽ dạy con biết đường về cơi sống:

trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề,

ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi!’”

(Acts 2:24-28; Ps 16:8-11)

 

Về việc Người đổ Thần Linh Chúa xuống trên một tân nhân loại được Người cứu chuộc:

 

·        Anh em phải ư thức được rằng những người này không phải là những người say, như anh em tưởng nghĩ đâu. Mới chín giờ sáng thôi! Không, đó là những ǵ tiên tri Joel đă nói đến:

Sau này Ta sẽ đổ thần khí Ta xuống trên hết thảy phàm nhân.

Con trai con gái của các người sẽ là những ngôn sứ,

người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến.

Trong những ngày đó, Ta cũng sẽ đổ thần khí Ta trên các tôi nam tớ nữ của Ta.

Ở dưới đất cũng như trên trời,

Ta sẽ cho xuất hiện nhiều điềm lạ là máu, lửa, và cột khói.

Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng hóa thành máu, trước ngày Chúa xuất hiện.

Ngày vĩ đại, kinh hoàng.

Bấy giờ hết những ai kêu cầu danh Chúa sẽ được ơn cứu độ”.

(Acts 2:15-21; Joel 3:1-5)

 

Với tất cả chứng từ Cựu Ước như thế, như được toát lược liệt kê và so sánh xác đáng với Tân Ước trên đây, thế mà tại sao dân Do Thái vẫn không tin Người: “Người đă đến với dân riêng của ḿnh, nhưng dân riêng của Người không chấp nhận Người” (Jn 1:11)? Về vấn đề này, người viết đă tŕnh bày quan điểm của ḿnh trong cuốn Ư Thức Kitô Giáo (Cao-Bùi 1998, trang 10-14) như sau:

 

“Về việc dân Do Thái không công nhận Đức Giêsu Nazarét, giáo tổ Kitô giáo, là Đấng Thiên Sai, là v́ vấn đề giải thích Thánh Kinh của họ. Chính Đức Giêsu đă nói cho họ biết sự thật phũ phàng này, như Phúc Aâm Gioan ghi lại ở đoạn 5, câu 39 và 40: ‘Qúi vị t́m kiếm trong các Sách Thánh để được sự sống đời đời, các Sách Thánh cũng chứng tỏ về Tôi. Nhưng qúi vị lại không muốn đến với Tôi để được sự sống’. Tại sao thế? Cũng Phúc Aâm Gioan ghi lại ở đoạn 5, câu 46 và 47, lời Đức Giêsu đă thẳng thắn cho  họ biết lư do: ‘Nếu qúi vị tin Moisen th́ qúi vị cũng sẽ tin Tôi, v́ Moisen đă viết về Tôi. Nhưng nếu qúi vị không tin điều Moisen viết th́ làm sao qúi vị có thể tin được điều Tôi nói’.

           

“Như thế có nghĩa là, sở dĩ dân Do Thái không chịu hay chưa chịu công nhận Đức Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, v́ họ không tin Moisen, mà là tin chính ḿnh họ, tin vào những ǵ họ nghĩ, đúng như lời Ngài cho họ biết, cũng được  Phúc Aâm Gioan ghi lại ở đoạïn 5, câu 44: ‘Những người như qúi vị làm sao có thể tin được, một khi qúi vị c̣n t́m chúc tụng nơi nhau mà không t́m kiếm vinh dự từ Thiên Chúa’. Đó mới là lư do tiêu cực cho thấy tại sao dân Do Thái không tin Đức Giêsu, c̣n lư do thực sự về sự kiện này, cũng chính Ngài đă cho họ biết, được Phúc Aâm Gioan ghi lại ở đoạn 8, câu 46 và 47, như sau: ‘Ai trong qúi vị có thể bắt lỗi được Tôi? Nếu Tôi đang nói sự thật th́ tại sao qúi vị lại không tin Tôi? Ai bởi Thiên Chúa mà ra th́ nghe thấy mọi lời Người phán. Lư do tại sao qúi vị không nghe được là v́ qúi vị không bởi Người mà ra’.

           

“Phải, căn nguyên sâu xa khiến cho dân Do Thái không chịu hay chưa thể công nhận Đức Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai đúng như Sách Thánh của họ đă nói đến, là v́ họ ‘không bởi Thiên Chúa mà ra’, nên theo tự nhiên họ ‘không t́m kiếm vinh dự từ Thiên Chúa’. ‘Không bởi Thiên Chúa mà ra’ đây, theo ư nghĩa của toàn bộ lời Chúa Giêsu trong Phúc Âm, được hiểu là không ‘được hạ sinh bởi trên cao’, một điều kiện tối yếu để ‘có thể thấy vương quốc Thiên Chúa’, như Chúa Giêsu khẳng định với Nicôđêmô là một phần tử của nhóm Pharisiêu, được Phúc Aâm Gioan ghi nhận ở đoạn 3, câu 3: ‘Tôi nói thật cho ông hay không ai có thể thấy vương quốc của Thiên Chúa nếu không được hạ sinh bởi trên cao’.

           

“Thật vậy, ‘vương quốc của Thiên Chúa’, theo dự án cứu độ phổ cập của Người, là một vương quốc bao trùm toàn thể đại gia đ́nh nhân loại, chứ không riêng ǵ một ḿnh dân tộc Do Thái là dân đă được Người tuyển chọn cách riêng để nhờ họ các dân tộc khác có thể nhận biết Người, như Người đă tỏ cho tổ phụ Abraham của họ, được sách Khởi Nguyên ghi nhận ở đoạn 12, câu 3: ‘Tất cả mọi cộng đồng trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi ngươi’, hay ở đoạn 17, câu 4: ‘Giao ước của Ta với ngươi là như thế này: ngươi phải trở nên cha ông của vô số dân tộc’; hoặc ở đoạn 22, câu 18: ‘Tất cả mọi dân tộc trên mặt đất này sẽ được chúc phúc nơi gịng dơi của ngươi’.

           

“Lịch sử thế giới cho thấy, vào thời điểm Đức Giêsu hạ sinh và hoạt động th́ dân tộc Do Thái đang bị đế quốc Rôma đô hộ. Và lịch sử riêng của dân Do Thái cũng cho thấy, v́ họ là dân của Ngài, dù họ có lỗi lầm đi nữa, nếu họ c̣n tin tưởng kêu cầu Người, th́ Thiên Chúa vẫn ra tay cứu họ khỏi những bất hạnh trần thế, như khỏi làm tôi nước Ai Cập, như sách Xuất Hành thuật lại, khỏi các dân ngoại lấn át, như sách Quan Aùn thuật lại, khỏi bị dân ngoại tru diệt, như sách Esther thuật lại, khỏi bị lưu đầy bên Babylon, như đoạn kết cuốn Kư Sự 2 và đoạn đầu sách Ezra thuật lại, và khỏi bị dân ngoại đàn áp, như các sách Macabê thuật lại v.v. Bởi thế, không lạ ǵ, khi bị đế quốc Rôma cai trị, họ cũng mong một Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân tộc ḿnh. Trong khi đó, Đức Giêsu Nazarét lại bị chính nhà cầm quyền Rôma đóng đanh vào thập giá mà ‘không thể tự cứu lấy ḿnh’, bằng cách ‘xuống khỏi thập giá’, như họ thách thức để họ tin, như Phúc Âm Mathêu c̣n ghi lại sự việc này ở đoạn 27, câu 42. Do đó, với xu hướng ‘t́m chúc tụng nơi nhau mà không t́m kiếm vinh dự từ Thiên Chúa’ như thế th́ làm sao họ có thể công nhận Đức Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai, Đấng mà Gioan Tẩy Giả, theo Phúc Aâm Gioan ở đoạn 1, câu 26 ghi lại, đă nói với những người được sai đến với thánh nhân v́ tưởng thánh nhân là Đấng Thiên Sai, cho họ biết rằng: ‘Có một vị ở giữa các người mà các người không nhận ra’.

           

“Phải, dân Do Thái ‘không nhận ra’ Đức Giêsu Nazarét là Đấng Thiên Sai ‘ở giữa’ họ 2000 năm trước đây, vẫn biết, về phương diện tự nhiên, là do họ đă ‘không t́m kiếm vinh hiển từ Thiên Chúa’, song về phương diện siêu nhiên, phải nói là v́ họ ‘không bởi Thiên Chúa mà ra’, tức chưa ‘được hạ sinh bởi trên cao’, hay chưa được hạ sinh bởi Thiên Chúa cũng vậy. Nếu ‘xác thịt sinh ra xác thịt, Thần Linh sinh ra Thần Linh’, như lời Chúa Giêsu đă khẳng định với Nicôđêmô, được Phúc Aâm Gioan ghi nhận ở đoạn 3, câu 6, th́ tự ḿnh, tức theo tự nhiên, hay theo con mắt phàm nhân của ḿnh, dân Do Thái cũng không thể nào có thể dễ dàng công nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô, cho đến khi họ ‘được hạ sinh bởi Thần Linh’, như Chúa Giêsu đă xác nhận với Nicôđêmô ở đoạn 3, câu 8 của Phúc Aâm Gioan. Đó cũng là lư do Chúa Giêsu đă minh định với người Do Thái cũng như với các môn đệ ḿnh ở đoạn 6, câu 44 và 65 của Phúc Aâm Gioan: ‘Đó là lư do Thày đă bảo các con rằng không ai đến được với Thày nếu không được Cha cho phép’, ‘không ai đến được với Tôi, nếu Cha là Đấng đă sai Tôi không lôi kéo’.

           

“Tóm lại, vấn đề tại sao dân Do Thái không công nhận Đức Giêsu Nazarét, giáo tổ Kitô giáo, là Đấng Thiên Sai, Đấng thực sự là một con người phát xuất từ huyết nhục của họ, mà cũng hoàn toàn là ‘Thiên Chúa ở cùng chúng ta’, như sách tiên tri của họ ghi nhận ở đoạn 7, câu 14, chẳng qua v́ họ chưa ‘được hạ sinh bởi trên cao’, tức chưa đến thời điểm Thiên Chúa ấn định cứu họ thế thôi, như chủ trương của vị Tông Đồ Dân Ngoại Phaolô trong thư thánh nhân gửi cho giáo đoàn Rôma, đoạn 11, câu 26, chứ không phải chỉ v́ việc dân Do Thái không công nhận Chúa Giêsu là Đức Kitô mà Ngài không phải là Đấng Thiên Sai nữa. Việc các dân tộc trên thế giới hiện nay tin vào Đức Giêsu Nazarét, một con người về nhân tính cũng thuộc gịng dơi Do Thái như họ, đă đủ chứng thực cho họ thấy Ngài quả là Đấng Thiên Sai, v́ nhờ Ngài mà lời  Thiên Chúa hứa với Abraham, tổ phụ của họ, đă được hoàn toàn ứng nghiệm: ‘Tất cả mọi cộng đồng trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi ngươi’; ‘tất cả mọi dân tộc trên mặt đất này sẽ được chúc phúc nơi gịng dơi của ngươi’.”